Utada Hikaru (宇多田 ヒカル) là một trong những nữ nghệ sĩ Nhật Bản nổi tiếng nhất mọi thời đại. Cô từng phát hành 5 album tiếng Nhật, 3 album tiếng Anh. Album gần đây nhất của Utada, "This Is the One" đã lọt vào vị trí thứ 69 của bảng xếp hạng âm nhạc uy tín U.S. Billboard 200 khi mới phát hành.
Với các tín đồ của những trò chơi điện tử có xuất xứ từ Nhật Bản, Utada Hikaru (宇多田 ヒカル) là một cái tên quen thuộc. Cô đã đảm nhận việc hát ca khúc chủ đề cho 2 phần của game Kingdom Hearts nổi tiếng. Gần đây, cô cũng đã trở nên quen thuộc với các khán giả của Skrillex khi kết hợp với nam DJ trong "Face My Fears". Đây là ca khúc chủ đề cho phần 3 của trò chơi Kingdom Hearts.
Ngoài những điều trên, vẫn có rất nhiều thứ khác nữa để nói về Utada. Khán giả Nhật Bản đã biết đến cô và yêu mến nữ ca sĩ kể từ album đầu tay "First Love" phát hành vào năm 1999. Với phong cách âm nhạc pha trộn giữa R&B, Dance-pop và Rock, cô đã trở thành một trong những nghệ sĩ được kính trọng nhất tại đất nước mặt trời mọc. Màu sắc âm nhạc của nữ ca sĩ đã trở thành một công thức thành công mà rất nhiều nghệ sĩ J-Pop về sau đã học hỏi.
Nữ ca sĩ trở thành niềm vinh hạnh không chỉ cho thị trường giải trí xứ hoa anh đào mà còn của cả khán giả yêu nhạc châu Á khi cô chinh phục được bảng xếp hạng âm nhạc Mỹ. Thậm chí cho đến nay, cái tên Utada Hikaru vẫn rất được ưa chuộng ở thị trường âm nhạc Mỹ và châu Âu.
+ Nghệ danh: Hikaru Utada
+ Tên khai sinh: Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Sinh nhật: 19/01/1983
+ Cung hoàng đạo: Ma Kết
+ Chiều cao: (đang cập nhật)
+ Cân nặng: (đang cập nhật)
+ Nhóm máu: (đang cập nhật)
* Cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Utada Hikaru:
Utada Hikaru mang hai dòng máu Nhật - Mỹ. Cô cất tiếng khóc chào đời trên đất nước cờ hoa, tại thành phố New York nổi tiếng. Cô là con duy nhất trong một gia đình có truyền thống về âm nhạc, với cha là Teruzane Utada, một nhà sản xuất thu âm với nhiều sáng tác về nhạc trữ tình mang âm hưởng của cuối thập niên 80 đầu những năm 90. Mẹ cô là Keiko Fuji, một nữ ca sĩ hát nhạc truyền thống với giọng hát trầm và đẹp rất phù hợp với những bản ballad ra đời vào cuối thập niên 60.
Công việc của cha cô đã khiến cả gia đình phải di chuyển qua lại giữa Nhật Bản và Mỹ, điều này đã góp phần giúp hình thành cho nữ ca sĩ sự pha trộn độc đáo và thú vị cả về văn hóa lẫn phong cách âm nhạc. Utada Hikaru đã có 1 thời gian ngắn theo học tại Đại học Columbia danh tiếng, tuy nhiên sau đó cô đã ngừng lại để tập trung hoàn toàn cho sự nghiệp âm nhạc.
Cô tự viết các ca khúc đầu tiên vào năm 10 tuổi, và cùng với mẹ và cha, 3 người làm nên nhóm U3 phát hành các sản phẩm "cây nhà lá vườn". Đến năm 15 tuổi, Utada Hikaru ra mắt solo với nghệ danh là Cubic U và phát hành album "Precious". Sản phẩm này đã không gặt hái được bất cứ thành công nào trong lĩnh vực thương mại.
Thất bại đó không khiến cô nản lòng, ngược lại cô tiếp tục trung thành với phong cách của mình và làm việc chăm chỉ.
Năm 16 tuổi, cô phát hành album đầu tay "First Love" và gặt hái thành công vượt trội. Tính đến cuối tháng 3/1999, "First Love" đã tiêu thụ được 3,5 triệu bản (10 triệu bản trên toàn cầu tính đến hiện tại). Đây là album bán chạy nhất trong lịch sử Nhật Bản và đến nay vẫn là ca khúc mang tính biểu tượng gắn liền với thanh xuân của cả 1 thế hệ âm nhạc.
Từ đó, với bất kỳ album nào, Utada Hikaru cũng đứng đầu danh sách album được yêu thích nhất và bán chạy nhất tại Nhật Bản.
Album "Distance" phát hành vào năm 2001 đã cán mốc 3 triệu bản bán ra ngay trong tuần đầu tiên, phá vỡ mọi kỷ lục trong lịch sử của nền công nghiệp âm nhạc xứ sở mặt trời mọc.
Album "Deep River" ra mắt 1 năm sau đó tiếp tục gặt hái doanh số nói trên, giúp Utada Hikaru trở thành nữ ca sĩ duy nhất của Nhật Bản có 3 album liên tục đạt thành tích 3 triệu bản album. Tất cả những sản phẩm này đều thống trị BXH Oricon và nằm trong top 10 những ca khúc xuất sắc nhất năm. Cũng tại thời điểm này, cô bắt đầu thể hiện các ca khúc chủ đề cho loạt game Play Station: Kingdom Hearts 1 và Kingdom Hearts 2.
Những thành công nối tiếp đã giúp cô bước chân vào thị trường Mỹ. Tại thời điểm còn học ở Đại học Columbia, sinh viên ở đây đã truyền tai nhau tin đồn về một "Britney Spears của Nhật Bản".
Hai sản phẩm tiếng Anh đầu tiên là "Exodus" và "Heart Station" mặc dù đều thống trị BXH Oricon, nhưng vẫn chưa gặt hái được thành quả nào tại Mỹ, mặc dù tại thời điểm này Utada Hikaru đã được cả thế giới biết đến nhờ việc thể hiện nhạc game Play Station.
Đến năm 2009, Utada Hikaru một lần nữa trở lại đất Mỹ với album "This Is The One". Đây có thể nói là sản phẩm cộp mác Utada hoàn toàn khi cô đảm nhận tất cả mọi vai trò, từ nhạc sĩ, ca sĩ đến biên tập và nhà sản xuất. Hiểu rõ sự khắt khe của thị trường Mỹ sau 2 lần thất bại trước cũng như những nghiên cứu kỹ càng về thị hiếu, nữ diva Nhật đã quay lại với phong cách trung thành: R&B và Pop.
Với album này, công sức và sự nghiêm túc với nghệ thuật của cô đã được đền đáp. Album hạ cánh ở vị trí thứ 69 trên BXH Billboard 200, đồng thời lọt vào top 10 iTunes Pop Album, một kỳ tích mà hiếm có nghệ sĩ châu Á nào làm được ở thời điểm đó. Đĩa đơn trích từ album này là "Come Back To Me" đã nhanh chóng tạo nên một cơn sốt tại Mỹ khi lọt vào BXH Billboard Pop 100 ở vị trí 93, và No.5 trên BXH Hot Dance Club Play.
Cũng trong năm 2009, Utada Hikaru được bình chọn là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất thời đại của Nhật Bản, do tạp chí The Japan Times thực hiện.
Không chỉ hoạt động như một nghệ sĩ solo, cô còn hợp tác với rất nhiều tên tuổi khác trên trường quốc tế. Cô từng hợp tác với rapper Timbaland ở những năm đầu Mỹ tiến, cả 2 cùng với Kiley Dean đã góp giọng trong ca khúc chủ đề thế vận hội Olympic 2004 "By Your Side". Nữ ca sĩ người Nhật còn song ca với Ne-Yo trong "Do You" và bắt tay 2 lần với French Montana. Gần đây nhất như chúng ta đã thấy, cô kết hợp với Skrillex trong ca khúc chủ đề cho Kingdom Hearts mới nhất "Face Your Fears".
Ngoài những điều trên, tất nhiên không thể không nhắc đến màn kết hợp cùng Suboi trong ca khúc "Too Pround". Utada Hikaru đã mời 3 nghệ sĩ đến từ 3 quốc gia khác nhau, trong đó có Việt Nam để cùng thể hiện bản nhạc đánh dấu sự trở lại của nữ hoàng nhạc Pop Nhật Bản sau 12 năm. Toàn bộ phần rap của Suboi đều bằng tiếng Việt đã khiến khán giả trong nước không ngừng tự hào và chỉ biết thốt lên 1 từ duy nhất: Chất!
Câu chuyện về cuộc đời của Utada Hikaru và sự nghiệp âm nhạc rực rỡ của cô đã trở thành nguồn cảm hứng cho không chỉ các nghệ sĩ Nhật Bản mà còn cho nhiều nghệ sĩ châu Á khác. Đó là sự nỗ lực và khát khao được chứng tỏ bản thân trên bầu trời âm nhạc quốc tế, được lọt vào BXH Billboard danh giá và được khán giả Mỹ biết đến tên tuổi.
+ Sanctuary/Passion - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Prisoner Of Love - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ First Love - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Beautiful World - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Come Back To Me - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Darekano Negaiga Kanaukoro - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Sakura Drops - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Simple and Clean and Hikari/Light/光 - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Be My Last - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Final Distance - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Keep Tryin' - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Nijikan Dake no VacanceTwo-Hour Vacation/二時間だけのバカンス feat. Ringo Sheena - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Traveling - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Boukyaku/Obivion/忘却 feat. KOHH - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Me Muero - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ COLORS - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Time - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Goodbye Happiness - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Flavor Of Life - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)
+ Chikai - Utada Hikaru (宇多田 ヒカル)